Chú thích Ngô_Quang_Trưởng

  1. Thời kỳ Đệ nhất Cộng hòa, Tổng thống Ngô Đình Diệm đổi tên tỉnh Bến Tre thành Kiến Hòa, Tỉnh lỵ là Trúc Giang.
  2. Năm 1951, Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra 2 cơ sở huấn luyện quân sự cấp trung, tiếp nhận thí sinh từ 3 miền Bắc-Trung-Nam với mục đích đào tạo sĩ quan trừ bị phục vụ cho Quân đội Quốc gia. Ở miền Bắc đặt cơ sở ở tỉnh Nam Định được gọi là trường "Sĩ quan Trừ bị Nam Định", miền Nam đặt cơ sở tại Thủ Đức thuộc tỉnh Gia Định được gọi là trường "Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức". Cả hai trường đều khai giảng khóa học đầu tiên cùng một thời điểm. Tuy nhiên, trường Sĩ quan Nam Định chỉ đào tạo duy nhất một khóa đặt tên là khóa Lê Lợi. Sau đó tất cả thí sinh trên toàn quốc được tiếp nhận để đào tạo tại trường Sĩ quan Thủ Đức. Hai khóa đầu của trường Nam Định-Thủ Đức và các khóa: 2, 3, 3p, 4, 4p, 5 của trường Thủ Đức, sĩ quan tốt nghiệp được mang cấp bậc Thiếu úy theo quy chế hiện dịch đồng thời được lên cấp tướng giống như sĩ quan tốt nghiệp ở trường Võ bị. Từ khóa 6 trở về sau, sĩ quan tốt nghiệp theo quy chế trừ bị chỉ mang cấp bậc Chuẩn úy và được thăng đến cấp cao nhất là Đại tá, ngoại trừ trường hợp được xét thi chuyển qua ngạch hiện dịch.
  3. Cùng theo học khóa căn bản Nhảy Dù với Thiếu úy Trưởng còn có các tân Thiếu úy:
    -Lê Quang Lưỡng (SN 1932, Võ khoa Thủ Đức K4, chức vụ sau cùng: Chuẩn tướng Tư lệnh Sư đoàn Nhảy dù)
    -Vũ Văn Giai (SN 1934, Võ bị Đà Lạt K10, sau cùng: Chuẩn tướng Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh)
    -Nguyễn Đức Huy (Sinh năm 1933 tại Bắc Ninh, tốt nghiệp s10 Võ bị Đà Lạt. Cấp bậc sau cùng: Đại tá Trưởng phòng 4 Sư đoàn Nhảy dù)
    -Nguyễn Đình Vinh (Sinh năm 1935 tại Đà Lạt, tốt nghiệp khóa 10 Võ bị Đà Lạt. Cấp bậc sau cùng: Đại tá Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn IV).
  4. Trong trận giao tranh với Việt Minh tại Điện Biên Phủ, Đại úy Phú bị bắt làm tù binh cho đến tháng 9 năm 1955 mới được trao trả về với Quân đội Quốc gia. Sau cùng là Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn II, tự sát ngày 30 tháng 4 năm 1975.
  5. Thiếu tá Hồ Tiêu sinh năm 1922 tại Quảng Trị, tốt nghiệp khóa 2 trường Võ bị Địa phương Trung Việt (Huế). Sau cùng là Đại tá Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt
  6. Đơn vị Nhảy dù được xem là cái nôi trong cuộc đời binh nghiệp của tướng Trưởng. Năm 1964, Tiểu đoàn 5 do ông chỉ huy trực thăng vận nhảy vào mật khu Đỗ Xá, thuộc quận Minh Long, tỉnh Quảng Ngãi, phá vỡ một căn cứ Bộ Tư lệnh Mặt trận B1 của Mặt Trận Dân tộc giải phóng miền Nam, tịch thu 160 súng đủ loại. Một thời gian sau đơn vị ông lại được trực thăng vận nhảy vào mật khu Hắc Dịch, thuộc vùng núi ông Trinh, tỉnh Phước Tuy, căn cứ của Công trường 7 (F.7 của quân giải phóng). Sau hai ngày chạm súng, đơn vị của ông tuyên bố đã gây thiệt hại nặng cho hai Trung đoàn thuộc Công trường 7.
  7. Trong năm 1965, Lữ đoàn Nhảy dù với 2 Chiến đoàn gồm 5 Tiểu đoàn đã mở cuộc hành quân Thần Phong 7 cùng với Sư đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ đặt dưới quyền điều động của Quân đoàn II, tham gia chiến dịch Trường Chinh tại Pleiku do Quân đoàn II phát động.
    Cuối năm 1965, Lữ đoàn Nhảy dù được nâng lên thành cấp Sư đoàn, sau khi đã tổ chức và trang bị hoàn chỉnh thành 3 Chiến đoàn trực thuộc.
  8. Thiếu tá Nhã sau thăng cấp Trung tá. Năm 1974 tử trận được truy thăng Đại tá.
  9. Các đơn vị của Quân Giải phóng miền Nam gồm: Đoàn 5 có các Tiểu đoàn K4A, K4B, TĐ 12 đặc công nội thành, Thành Đoàn Huế. Đoàn 6 gồm các Tiểu đoàn K41, K6, Tiểu đoàn 13 Đặc công nội thành Huế, các Đại đội Đặc công 15, 16, 17, 18 tăng cường thêm một Đại đội súng Phòng không 37mm, hai Đại đội Du kích quận Hương Trà, Phong Điền, hai Đại đội Biệt động nội thành Huế và hai Tiểu đoàn 416, 418 thuộc Đoàn 9 Cù Chính Lan.
  10. Vào thời điểm Trung tướng Ngô Quang Trưởng nhậm chức Tư lệnh Quân đoàn I, đã xảy ra sự mâu thuẫn giữa tướng Trưởng và hai vị tướng Tư lệnh 2 đơn vị Tổng trừ bị: Lê Nguyên Khang (Tư lệnh Sư đoàn Thuỷ Quân Lục chiến), Dư Quốc Đống (Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù), vì hai vị này đã là Trung tướng thực thụ và thuộc diện tướng đàn anh của tướng Trưởng trong khi tướng Trưởng chỉ là Trung tướng nhiệm chức. Do đó, khi bị đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Trưởng, 2 vị tướng này tỏ vẻ bất mãn (Tướng Khang lên Chuẩn tướng và Thiếu tướng năm 1964, Trung tướng năm 1966. Tướng Đống lên Chuẩn tướng năm 1965, Thiếu tướng năm 1968 và Trung tướng năm 1970. Trong khi vào thời điểm năm 1964 tướng Trưởng mới là Thiếu tá và năm 1965 mới lên Trung tá). Để giải quyết mâu thuẫn này Tổng thống Thiệu liền ký quyết định phong Trung tướng thực thụ cho tướng Trưởng. Sau đó thuyên chuyển tướng Khang về Bộ Tổng Tham mưu giữ chức vụ Tổng thanh tra Quân lực, đồng thời bổ nhiệm Đại tá Bùi Thế Lân (Tư lệnh phó) làm Tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Trung tuần tháng 11 năm 1972, bổ nhiệm Đại tá Lê Quang Lưỡng Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 1 Nhảy Dù đang Xử lý Thường vụ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù được chính thức làm Tư lệnh thay thế Trung tướng Đống.
  11. Thực tế, tướng Hoàng Xuân Lãm bị cách chức Tư lệnh Quân đoàn I và Quân khu 1 vì đã để mất tỉnh Quảng Trị vào tay Quân Giải phóng miền Nam. Ông được điều về Trung ương làm Phụ tá cho Tổng trưởng Quốc phòng, chỉ là một chức vụ không quan trọng giống như "ngồi chơi xơi nước" vậy.
  12. Lực lượng Tổng trừ bị gồm Sư đoàn Nhảy dù và Sư đoàn Thủy quân Lục chiến cùng các Liên đoàn Biệt Động quân là Lực lượng Tổng trừ bị của Quân khu.
  13. Tư lệnh phó Đặc trách Hành quân kiêm Tư lệnh Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn
  14. Đặc trách Lãnh thổ Quân khu
  15. Đại tá Hoàng Mạnh Đáng sinh năm 1930 tại Quảng Bình, tốt nghiệp trường Võ bị Địa phương Vũng Tàu
  16. Đại tá Lê Quang Nhơn sinh năm 1924 tại Rạch Giá, tốt nghiệp khóa 2 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức
  17. Phòng chuyên về nhiệm vụ Tình báo và Phản gián
  18. Đại tá Phạm Văn Phô sinh năm 1933 tại Cần Thơ, tốt nghiệp khóa 8 Võ bị Liên quân Đà Lạt
  19. Phòng chuyên về lên kế hoạch, đồng thời theo dõi diễn biến và đáp ứng yêu cầu cho những cuộc hành quân lớn và nhỏ của các đơn vị trực thuộc Quân đoàn, Quân khu
  20. Đại tá Lê Bá Khiếu sinh năm 1934 tại Thừa thiên, tốt nghiệp khóa 4 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức
  21. Đại tá Phạm Kim Chung sinh năm 1929 tại Kiến An, tốt nghiệp khóa 6 trường Võ bị Liên quân Đà Lạt
  22. Đại tá Ngô Minh Châu sinh năm 1926 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp khóa 4 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức
  23. 1 2 http://www.baophuyen.com.vn/76/130239/chien-dich-hue-da-nang.html